Bệnh ung thư được gây ra bởi đột biến của các tế bào. Sự gia tăng nhanh chóng của các tế bào đột biến gây tổn thất cho các mô bình thường và các cơ quan chức năng của cơ thể và cuối cùng dẫn đến cái chết. Dấu vết của các khối u ác tính có thể được tìm thấy trong tất cả các bộ phận cơ thể con người, ngoại trừ tóc.
Cơ thể con người không có triệu chứng nào khi cơ thể có vài trăm tế bào ung thư. Chỉ khi các tế bào ung thư sinh sôi nảy nở tạo thành một khối u hoàn chỉnh, lúc đó mới xuất hiện các triệu chứng. Vì vậy, rất khó phát hiện ung thư trước khi hình thành khối u, ngay cả với sự trợ giúp của thiết bị chính xác. Nhưng một khi các tế bào ung thư đã lan rộng thì khó có thể dự đoán chúng sẽ lây lan tới bộ phận nào tiếp theo của cơ thể. Vì vậy, đối với ung thư phòng chống là một chiến lược quan trọng.
Uỷ ban Hỗn hợp về Ung thư Hoa Kỳ phân ung thư thành những giai đoạn sau:
- Giai đoạn đầu: Mô khối u vẫn còn tồn tại trong một khu vực không có dấu hiệu của di căn (lan truyền từ một bộ phận này sang cơ quan khác)
- Giai đoạn trung cấp: Tế bào ung thư đã lan tràn đến các hạch bạch huyết nhưng chưa xâm chiếm các cơ quan khác
- Giai đoạn nâng cao: Tế bào ung thư lan tràn đến các hạch bạch huyết và các cơ quan khác
- Giai đoạn cuối: Tế bào ung thư di căn tới các cơ quan xa
Phương pháp điều trị thông thường đối với ung thư là phẫu thuật, hóa trị, và xạ trị, mang lại cho bệnh nhân đau đớn bởi các tác dụng phụ, nhưng lại không bảo đảm phục hồi. Một số bệnh viện áp dụng một phương pháp kết hợp truyền thống của Trung Quốc và phương Tây điều trị, làm tăng cơ hội của bệnh nhân hồi phục và giảm những thiệt hại gây ra bởi tác dụng phụ.
Nhiều nghiên cứu về ung thư đều cho rằng phương pháp điều trị ung thư hiệu quả nhất là trước khi hình thành khối U. Một khi các tế bào ung thư đã lan rộng và thâm nhập vào hệ thống bạch huyết, lúc đó không thể dự đoán chính xác bệnh ung thư sẽ xảy ra tiếp theo ở đâu. Vì vậy, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh rằng, trong điều trị ung thư phòng bệnh để đối phó ở giai đoạn đầu là phương án tối ưu.
Thí nghiệm trên động vật
- Năm 1985, Giáo sư Da-Cheng Dong cho chuột ăn Linh Chi Đỏ chiết xuất trong 30 ngày. Chiết xuất liều cao của Linh Chi đã cho thấy kết quả trong việc ức chế sự phát triển khối u. Nhưng thí nghiệm này không hiệu quả ở liều lượng thấp.
- Năm 2002, Kimura cho chuột được cấy tế bào ung thư phổi ác tính với liều lượng triterpenoids (triết xuất từ Linh Chi) cao trong 18 ngày. Kết quả cho thấy là di căn tế bào ung thư trong lá lách và gan của những con chuột ở nhóm điều trị thấp hơn đáng kể so với nhóm không được điều trị. Nó ức chế ung thư bằng cách trực tiếp hạn chế các tế bào ung thư phát triển các mạch máu mới.
- Năm 2004, Giáo sư Lin Zhi-Bin thấy rằng chất peptide polysaccharide trong Linh Chi có thể chống lại bệnh ung thư ở chuột bằng cách gián tiếp ngăn chặn các tế bào khối u phát triển các mạch máu mới và tự hoại do bị đói.
- Năm 2006, Zhong Jian-Giang Đông tại Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc cho thấy axit ganoderic T có hiệu quả ức chế sự phát triển khối u trong những con chuột được cấy ghép tế bào ung thư phổi. Liều lượng cao hơn, ức chế tế bào ung thư hiệu quả hơn.
- Thí nghiệm tương tự sử dụng triterpenoids đã được thực hiện trên các loại tế bào ung thư sau: bệnh bạch cầu, hepatoma (gan), biểu mô mũi họng, phổi, và tuyến tiền liệt.
Nấm Linh Chi Đỏ và nghiên cứu lâm sàng
Năm 1995, Thaithatgom từ Thái Lan đã sử dụng chiết xuất từ Linh (ganoderma fruiting body extracts) trong điều trị phụ trợ cho 80 bệnh nhân ung thư. Kết quả cho thấy:
- Triết xuất linh chi giúp kéo dài tuổi thọ của 50% bệnh nhân
- Giảm tác dụng phụ của hóa trị và xạ trị
- Sau điều trị, bệnh nhân giảm đau và thèm ăn
Năm 2003, ông Cao và các đồng nghiệp từ New Zealand đã cho 47 bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn cuối uống polysaccharide G.lucidum tinh khiết. Kết quả cho thấy:
- 41 bệnh nhân vẫn còn sống sau 3 tháng
- 68,3% bệnh nhân cho thấy hoạt động tế bào sát thủ tự nhiên tăng lên đáng kể
- Giảm đáng kể các tác dụng phụ của hóa trị và xạ trị như mệt mỏi, giảm cân, nôn, đổ mồ hôi lạnh và tiêu chảy đã giảm, cải thiện chất lượng cuộc sống.
- Các polysaccharides G.lucidum được dùng trong thí nghiệm cũng đã được thử nghiệm trên 34 bệnh nhân ung thư khác ở giai đoạn cuối (bao gồm cả phổi, vú, hepatoma, bàng quang,ung thư tuyến tiền liệt và ung thư não). 30 bệnh nhân vẫn còn sống, hiển thị các kết quả tích cực tương tự như trên.
Theo báo cáo định kỳ chuyên môn “Healthy Linh Chi” được xuất bản ở Đài Loan, một cuộc khảo sát khoa học được tiến hành trong năm 2007 trên bệnh nhân đã sử dụng chiết xuất từ Linh Chi phụ trợ điều trị chống ung thư trong 20 năm qua. 70% trong số 700 bệnh nhân ung thư được phỏng vấn cho rằng chiết xuất từ Linh Chi có thể làm giảm tác dụng phụ của hóa trị và xạ trị và tăng cường hệ miễn dịch.
Tóm lại
- Nhiều nghiên cứu khoa học đã quan sát thấy rằng bất kể trong giai đoạn điều trị nào, cách tiếp cận quan trọng nhất của nấm linh chi là:
- Ức chế sự phát triển tế bào ung thư/di căn
- Gây ra tế bào ung thư tự hoại (apoptosis), và Trực tiếp tiêu diệt các tế bào ung thư
- Hơn nữa, nấm linh chi được tìm thấy có hiệu quả như điều trị phụ trợ cho bệnh nhân ung thư bởi nó giúp: Kéo dài tuổi thọ của người bệnh; Giảm các tác dụng phụ của hóa trị và xạ trị và cho bệnh nhân cuộc sống chất lượng hơn.
- Điều này là do nấm linh chi giúp tăng cường tổng thể hệ miễn dịch và khả năng chống ung thư của cơ thể và làm tăng mức độ khoan dung của họ với hóa trị và xạ trị.
(nguồn từ internet)